PHẬT ĐẢN SANH
Vào năm 563 trước Tây lịch, một cậu bé được
sanh ra trong một hoàng tộc tại miền Bắc Ấn Độ. Hoàng tử này trưởng thành trong
giàu sang xa xỉ, nhưng sớm nhận ra tiện nghi vật chất và sự an toàn trên thế
gian không đem lại hạnh phúc thật sự. Ngài động lòng trắc ẩn sâu xa trước hoàn
cảnh khổ đau quanh Ngài, chính vì vậy mà Ngài nhất định tìm cho ra chìa khóa
đưa đến hạnh phúc cho nhân loại. Vào năm 29 tuổi Ngài rời bỏ vợ đẹp con ngoan
và cung vàng điện ngọc để cất bước lên đường học đạo với những bậc thầy nổi tiếng
đương thời. Những vị thầy này dạy Ngài rất nhiều nhưng không vị nào thật sự
hiểu biết nguồn cội của khổ đau phiền não của nhân loại và làm cách nào để vượt
thoát khỏi những thứ đó. Cuối cùng sau sáu năm tu học và hành thiền, Ngài liễu
ngộ và kinh qua kinh nghiệm tận diệt vô minh và thành đạt giác ngộ. Từ ngày đó
người ta gọi Ngài là Phật, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong 45 năm sau đó Ngài
chu du khắp miền Bắc Ấn để dạy người những gì mà Ngài đã chứng ngộ. Lòng từ bi
và hạnh nhẫn nhục của Ngài quả thật kỳ diệu và hàng vạn người đã theo Ngài, trở
thành tín đồ Phật giáo. Đến năm Ngài 80 tuổi, dù xác thân già yếu bệnh hoạn,
nhưng lúc nào Ngài cũng hạnh phúc và an vui, cuối cùng Ngài nhập Niết Bàn vào
năm 80 tuổi. Lìa bỏ gia đình không phải là chuyện dễ dàng cho Đức Phật. Sau một
thời gian dài đắn đo suy nghĩ Ngài đã quyết định lìa bỏ gia đình. Có hai sự lựa
chọn, một là hiến thân Ngài cho gia đình, hai là cho toàn thể thế gian. Sau
cùng, lòng từ bi vô lượng của Ngài đã khiến Ngài tự cống hiến đời mình cho thế
gian. Và mãi cho đến nay cả thế giới vẫn còn thọ hưởng những lợi ích từ sự hy
sinh của Ngài. Đây có lẽ là sự hy sinh có nhiều ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Hiện nay vẫn còn nhiều bàn cãi về năm sanh
chính xác của Đức Phật; tuy nhiên ý kiến của phần đông chọn năm 623 trước Tây
Lịch. Ngày Phật đản sanh là ngày trăng tròn tháng 4. đó là một ngày tuyệt đẹp.
Tiết trời trong sạch, gió mát thoang thoảng. Trong vườn trăm hoa đua nở, tỏa
hương ngào ngạt, chim hót líu lo… tạo thành một cảnh tượng thần tiên ở thế gian
để đón chào sự đản sanh của Thái Tử. Theo truyền thuyết Ấn Độ thì lúc đó đất
trời rung động, từ trên trời cao tuôn đổ hai dòng nước bạc, một ấm một mát, tắm
gội cho thân thể của Thái Tử. Ngày nay các quốc gia theo truyền thống Phật
giáo, tổ chức ngày Đại lễ Phật Đản vào khoảng giữa tháng tư âm lịch. Cũng theo
truyền thuyết Ấn Độ, ngày Phật Đản sanh đáng tin cậy, có lẽ vào ngày mồng 4
tháng 8; tuy nhiên, tất cả các nước theo Phật giáo lấy ngày trăng tròn tháng tư
làm lễ kỷ niệm. Đối với cộng đồng Phật giáo, ngày lễ quan trọng nhất nhất là
ngày lễ Phật Đản. Đó là ngày trăng tròn tháng tư. Hằng triệu người trên thế
giới cử hành lễ Phật Đản. Ngày này được gọi là ngày Vesak tại xứ Tích Lan, ngày
Visakha Puja tại Thái Lan. Vào ngày này, Phật tử tại vài xứ như Trung Hoa, Đại
Hàn tham dự vào lễ “Tắm Phật.” Họ rưới nước thơm vào tượng Phật Đản Sanh. Việc
này tượng trưng cho thanh tịnh nơi tâm ý và hành động. Chùa viện được trang
hoàng bông hoa cờ phướn; trên bàn thờ đầy lễ vật cúng dường. Những bữa cơm chay
được dọn ra cho mọi người. Người ta làm lễ phóng sanh. Đây được xem như là ngày
thật vui cho mọi người. Theo truyền thống Nguyên Thủy, ngày Phật Đản sanh, có
lẽ vào ngày mồng 8 tháng 4; tuy nhiên, tất cả các nước theo Phật giáo lấy ngày
trăng tròn tháng tư làm lễ kỷ niệm. Đây là một trong những ngày lễ quan trọng
nhất của Phật giáo, vì ngày đó vừa là ngày Đức Phật đản sanh, thành đạo và đạt
niết bàn. Theo truyền thống Đại Thừa, ngày rằm tháng tư là ngày mà các nước
theo truyền thống Phật giáo tổ chức ngày lễ kỷ niệm Phật Đản sanh, xuất gia,
thành đạo và nhập Niết bàn. Lễ Vesak gồm có một thời giảng pháp, một buổi quán
niệm về cuộc đời Đức Phật, các cuộc rước xung quanh nơi thờ. Ngoài ra ngày
Vesak còn là dịp nhắc nhở chúng ta cố gắng đạt tới Đại giác.
Dù Đức Phật đã nhập diệt, nhưng trên 2.500
năm sau những giáo thuyết của Ngài vẫn còn tế độ rất nhiều người, gương hạnh
của Ngài vẫn còn là nguồn gợi cảm cho nhiều người, và những lời dạy dỗ của Ngài
vẫn còn tiếp tục biến đổi nhiều cuộc sống. Chỉ có Đức Phật mới có được oai lực
hùng mạnh tồn tại sau nhiều thế kỷ như thế ấy. Đức
Phật không bao giờ tự xưng rằng Ngài là một thần linh, là con của thần linh,
hay là sứ giả của thần linh. Ngài chỉ là một con người đã tự cải thiện để trở
nên toàn hảo, và Ngài dạy rằng nếu chúng ta noi theo gương lành ấy chính ta
cũng có thể trở nên toàn hảo như Ngài. Ngài không bao giờ bảo đệ tử của Ngài
thờ phượng Ngài như một thần linh. Kỳ thật Ngài cấm chỉ đệ tử Ngài làm như vậy.
Ngài bảo đệ tử là Ngài không ban phước cho những ai thờ phượng Ngài hay giáng
họa cho ai không thờ phượng Ngài. Ngài bảo Phật tử nên kính trọng Ngài như một
vị Thầy. Ngài còn nhắc nhở đệ tử về sau này khi thờ phượng lễ bái
tượng Phật là tự nhắc nhở chính mình phải cố gắng tu tập để phát triển lòng yêu
thương và sự an lạc với chính mình. Hương của nhang nhắc nhở chúng ta vượt
thắng những thói hư tật xấu để đạt đến trí huệ, đèn đốt lên khi lễ bái nhằm
nhắc nhở chúng ta đuốc tuệ để thấy rõ rằng thân này rồi sẽ hoại diệt theo luật
vô thường. Khi chúng ta lễ lạy Đức Phật
là chúng ta lễ lạy những giáo pháp cao thượng mà Ngài đã ban bố cho chúng ta.
Đó là cốt tủy của sự thờ phượng lễ bái trong Phật giáo. Nhiều người đã
lầm hiểu về sự thờ phượng lễ bái trong Phật giáo, ngay cả những Phật tử thuần
thành. Người Phật tử không bao giờ tin rằng Đức Phật là một vị thần linh, thì
không có cách chi mà họ có thể tin rằng khối gỗ hay khối kim loại kia là thần
linh. Trong Phật giáo, tượng Phật được dùng để tượng trưng cho sự toàn thiện
toàn mỹ của nhân loại. Tượng Phật cũng nhắc nhở chúng ta về tầm mức cao cả của
con người trong giáo lý nhà Phật, rằng Phật giáo lấy con người làm nòng cốt,
chứ không phải là thần linh, rằng chúng ta phải tự phản quang tự kỷ, phải quay
cái nhìn vào bên trong để tìm trạng thái toàn hảo trí tuệ, chứ không phải chạy
đông chạy tây bên ngoài. Như vậy, không cách chi mà người ta có thể nói rằng
Phật tử thờ phượng ngẫu tượng cho được. Kỳ thật, từ xa xưa lắm, con người
nguyên thủy tự thấy mình sống trong một thế giới đầy thù nghịch và hiểm họa. Họ
lo sợ thú dữ, lo sợ không đủ thức ăn, lo sợ bệnh hoạn và những tai ương hay
hiện tượng thiên nhiên như giông gió, bão tố, núi lửa, sấm sét, vân vân. Họ
không cảm thấy an toàn với hoàn cảnh xung quanh và họ không có khả năng giải
thích được những hiện tượng ấy, nên họ tạo ra ý tưởng thần linh, nhằm giúp họ
cảm thấy thoải mái tiện nghi hơn khi sự việc trôi chảy thuận lợi, cũng như có
đủ can đảm vượt qua những lúc lâm nguy, hoặc an ủi khi lâm vào cảnh bất hạnh,
lại cho rằng thượng đế đã sắp đặt an bài như vậy. Từ thế hệ này qua thế hệ
khác, người ta tiếp tục niềm tin nơi “thượng đế” từ cha anh mình mà không cần
phải đắn đo suy nghĩ. Có người cho rằng họ tin nơi thượng đế vì thượng đế đáp
ứng những thỉnh nguyện của họ mỗi khi họ lo âu sợ hãi. Có người cho rằng họ tin
nơi thượng đế vì cha mẹ ông bà họ tin nơi thượng đế. Lại có người cho rằng họ
thích đi nhà thờ hơn đi chùa vì những người đi nhà thờ có vẻ sang trọng hơn
những người đi chùa.
Buddha’s
Birth Day
In the year 563 B.C. a baby was born into a
royal family in northern India. He grew up in wealth and luxury but soon found
that worldly comfort and security do not guarantee real happiness. He was
deeply moved by the suffering he saw all around, so He resolved to find the key
to human happiness. When he was 29 he left his wife and child and his Royal
Palace and set off to sit at the feet of the great religious teachers of the
day to learn from them. They taught him much but none really knew the cause of
human sufferings and afflictions and how it could be overcome. Eventually,
after six years study and meditation he had an experience in which all
ignorance fell away and he suddenly understood. From that day onwards, he was
called the Buddha, the Awakened One. He lived for another 45 years in which
time he traveled all over northern India teaching others what he had
discovered. His compassion and patience were legendary and he made hundreds of
thousands of followers. In his eightieth year, old and sick, but still happy
and at peace, he finally passed away into nirvana. It couldn’t have been an
easy thing for the Buddha to leave his family. He must have worried and
hesitated for a long time before he finally left. There were two choices,
dedicating himself to his family or dedicating himself to the whole world. In
the end, his great compassion made him give himself to the whole world. And the
whole world still benefits from his sacrifice. This was perhaps the most
significant sacrifice ever made.
Nowadays, there are still some discussions over the exact year
of the Buddha’s birth; however, the majority of opinions favor 623 B.C. The
Buddha’s birthday was the day of the full moon in May. It was a beautiful day.
The weather was nice and a gentle breeze was blowing. All the flowers in the
Lumbini Park were blooming, emitting fragrant scents, and all the birds were
singing molodious songs. Together, they seemed to have created a fairy land on
earth to celebrate the birth of the Prince, a coming Buddha. According to the
Indian legendaries, at that time, the earth shook, and from the sky, two silvery
currents of pure water gushed down, one was warm and the other cool, which
bathed the body of the Prince. Nowadays, countries with Buddhist tradition
usually celebrate the Buddha’s Birthday around the middle of the fourth month
of the Lunar Year. Also according to Indian legends, the more reliable Buddha’s
Birth Day, perhaps on the 4th month, 8Th day; however, all Buddhist countries
obseve the Full Moon Day of the Lunar month of Vaisakha (April-May) as Buddha
Birth Day Anniversary. For the Buddhist community, the most important event of
the year is the celebration of the birth of the Buddha. It falls on the
full-moon day in the fourth lunar month (in May of the Solar Calendar). This
occasion is observed by millions of Buddhists throughout the world. It is called
Vesak in Sri Lanka, Visakha Puja in Thailand. On this day, Buddhists in some
countries like China and Korea would take part in the ceremonial bathing of the
Buddha. They pour ladles of water scented with flower petals over a statue of
the baby Buddha. This symbolizes purifying their thoughts and actions. The
temple are elegantly decorated with flowers and banners; the altars are full of
offerings. Vegetarian meals are provided for all. Captive animals, such as
birds and turtles, are set free from their cages. This is a very joyous day for
everyone. According to the Theravada tradition, the Buddha’s Birth Day, perhaps
on the 4th month, 8Th day; however, all Buddhist countries observe the Full
Moon Day of the Lunar month of Vaisakha (April-May) as Buddha Birth Day
Anniversary. This is one of the major festivals of Buddhism because most
Buddhist countries celebrate the day on which the Buddha was born, attained
awakening, and passed into nirvana. According to the Mahayana tradition, the
month corresponding to April-May, on the Full Moon day of which is celebrated
the Birth, Renunciation, Enlightenment and Parinirvana of the Buddha. The Vesak
celebration consists of the presentation of the teaching, contemplation of the
life of Buddha, the process around the secred sites. Furthermore, Vesak
festival goes beyond mere hirtorical commemoration; it is a reminder for each
of us to strive to become enlightened.
Even though the Buddha is dead but 2,500
years later his teachings still help and save a lot of people, his example
still inspires people, his words still continue to change lives. Only a Buddha
could have such power centuries after his death. The Buddha did not claim that
he was a god, the child of god or even the messenger from a god. He was simply a
man who perfected himself and taught that if we followed his example, we could
perfect ourselves also. He never asked his followers to worship him as a god.
In fact, He prohibited his followers to praise him as a god. He told his
followers that he could not give favors to those who worship him with personal
expectations or calamities to those who don’t worship him. He asked his
followers to respect him as students respect their teacher. He also reminded
his followers to worship a statue of the Buddha to remind ourselves to try to
develop peace and love within ourselves. The perfume of incense reminds us of
the pervading influence of virtue, the lamp reminds us of the light of
knowledge and the followers which soon fade and die, remind us of impermanence.
When we bow, we express our gratitude to the Buddha for what his teachings have
given us. This is the core nature of Buddhist worship. A lot of people have
misunderstood the meaning of “worship” in Buddhism, even sincere Buddhists.
Buddhists do not believe that the Buddha is a god, so in no way they could
possibly believe that a piece of wood or metal is a god. In Buddhism, the
statue of the Buddha is used to symbolize human perfection. The statue of the
Buddha also reminds us of the human dimension in Buddhist teaching, the fact
that Buddhism is man-centered, not god-centered, that we must look within not
without to find perfection and understanding. So in no way one can say that
Buddhists worship god or idols. In fact, a long time ago, when primitive man found
himself in a dangerous and hostile situations, the fear of wild animals, of not
being able to find enough food, of diseases, and of natural calamities or
phenomena such as storms, hurricanes, volcanoes, thunder, and lightning, etc.
He found no security in his surroundings and he had no ability to explain those
phenomena, therefore, he created the idea of gods in order to give him comfort
in good times, courage in times of danger and consolation when things went
wrong. They believed that god arranged everything. Generations after
generations, man continues to follow his ancestors in a so-called “faith in
god” without any further thinkings. Some says they in believe in god because
god responds to their prayers when they feel fear or frustration. Some say they
believe in god because their parents and grandparents believed in god. Some
others say that they prefer to go to church than to temple because those who go
to churches seem richer and more honorable than those who go to temples. (TP)
tượng bổn sư thích ca, tượng phật nằm, tượng phật thích ca đẹp được các phật tử thờ cúng trang nghiêm tại tư gia thể hiện tâm niệm thành kính đến đức phật
ReplyDelete