Theo truyền thuyết trong lịch sử Phật giáo thì Phật A-di-đà được tôn thờ sớm nhất trong lịch sử, vào hàng a tăng kỳ kiếp trước có một vị vua sau khi nghe đức Phật thuyết pháp thì lập tức giác ngộ và từ bỏ ngai vàng mà đi theo đức Phật để quy y pháp danh là Pháp Tạng và đã thành Phật hiệu là A Di Đà (16 triệu 800 ngàn năm là một tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp bằng 1 trung kiếp, 4 trung kiếp (thành, trụ, hoại, không) bằng một đại kiếp, một a tăng kỳ kiếp là 10140 kiếp (thường chỉ nói kiếp có nghĩa là đại kiếp))[1][2]. Thân hình của vị Phật này thường được vẽ bằng màu đỏ, tượng trưng cho màu mặt trời lặn phương Tây. Một tay của A-di-đà bắt ấn thiền định, tay kia giữ một cái bát, dấu hiệu của một giáo chủ, cũng có ảnh một tay đức phật cầm tòa sen, một tay xòe ra đưa xuống đất có ý nghĩa để dẫn dất chúng sinh lên tòa sen về cõi tịnh độ. Tòa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh và hai con công là biểu hiện của sự thoát hiểm, thoát khổ. Tại Ấn Độ và Tây Tạng, người ta tin rằng con công có thể ăn tất cả những chất độc mà không bị ảnh hưởng gì.
Tượng A Di Đà thường có những nét đặc trưng: đầu có các cụm thịt nhìn như tóc xoắn ốc,đó là Nhục kế-1 trong 32 tướng siêu việt, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm thông cứu độ, mình mặc áo cà sa, ngồi hoặc đứng trên tòa sen
Phật A-di-đà cũng thường được trình bày với hình tượng mang vương miện kết bằng ngọc quý, có khi dưới dạng của Pháp Tạng tỉ khiêu, đầu cạo trọc, một dạng tiền kiếp của phật A Di Đà. Thông thường, A-di-đà được vẽ ngồi trên tòa sen, tay Ngài bắt ấn thiền hay ấn giáo hóa. Cùng được thờ chung với A-di-đà là hai Bồ Tát, đó là Quán Thế Âm (sa. avalokiteśvara), đứng bên trái và Đại Thế Chí (sa. mahāsthāmaprāpta), đứng bên phải. Có khi người ta trình bày Phật A-di-đà đứng chung với Phật Dược Sư (sa. bhaiṣajyaguru-buddha).
Tương truyền rằng một trong số những kiếp luân hồi của A-di-đà từng là một nhà vua. Sau khi phát tâm mộ đạo, vị vua này từ bỏ ngôi báu và trở thành một tỳ kheo với tên là Pháp Tạng (sa. dharmākara). Ngài quyết tâm tu hành thành Phật và nguyện giúp chúng sinh tái sinh vào cõi Cực lạc của mình và cũng sẽ thành Phật. Phật A-di-đà lập 48 đại nguyện nhằm giúp chúng sinh giải thoát.
12 lời nguyện niệm của Đức Phật ADIDA
1. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Hôm nay và mãi mãi.
2. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Cho trí sáng tâm khai.
3. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Sống an vui tự tại.
4. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Không ác ý với ai.
5. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Luôn nói lời từ ái.
6. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Không gây khổ cho ai.
7. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Hằng trì trai giữ giới.
8. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Luôn nhẫn nại khoan dung.
9. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Sắc tài không đắm nhiễm.
10. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Trừ phiền não trái oan.
11. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Trải lòng thương muôn loại.
12. Kính lạy Phật Di-đà, Con nay xin phát nguyện,
Thường niệm danh hiệu Ngài, Chí vãng sinh không phai.
NAM MÔ ADIDA PHẬT!
No comments:
Post a Comment